gốm sứ việt nam qua các thời kỳ

Lịch sử hình thành của nghề gốm sứ Việt Nam * Gốm sứ Việt Nam . gốm sứ thời kì cổ đại * Người ta phát hiện các sản phẩm gốm sứ với lớp men dày , có các họa tiết rất tinh xảo như hoa sen , bông cúc, chim hạc việt nam. Các sản phẩm lúc này cũng đa dạng hơn nhiều Gốm Sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam theo sử sách ghi nhận đã hình thành từ cách đây khoảng 4000 ngàn năm, từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên. Qua thời gian nhiều làng nghề gốm đã hình thành và phát triển, những sản phẩm mà nghệ nhân mỗi làng nghề chế tạo với nhiều họa Hiện nay, việc trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa ở nhiều nơi đang có những việc làm sai, vi phạm luật di sản, làm biến dạng di tích, làm mất đi những yếu tố nguyên gốc, mất đi diện mạo và hồn cốt của các di tích lịch sử - văn hóa mà tiền nhân đã tạo Gốm sứ Việt Nam giai đoạn sau thế kỷ XIV. Gốm sứ Việt Nam thời kỳ này đã thừa kế và phát huy được những thành quả của tiến trình trước và đã hình thành một só làng nghề như Bát Tràng, Phù Lãng, Chu Đậu, Thổ Hà … đã mang đến sức sống mãnh liệt cùng với quy Tường vây bên ngoài được xây bằng gạch, với các hình thức sử dụng hệ cột phương Tây. Bên trên kết thúc bằng tường hoa chắn mái. 2. Kiểu kiến trúc 2-3 tầng. Xây dựng nhà 2 tầng hay 3 tầng phải áp dụng các kết cấu cột dầm, sàn bằng vật liệu bền vững. Cột gạch mimpi memakai gelang emas ditangan kiri menurut islam. Bài đăng lúc 22 21 5759 Lượt xem Gốm sứ Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển khá dày dặn và có nhiều biến đổi qua các thời kỳ. Để giúp bạn đọc hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ, hãy cùng chúng tôi đọc hết bài viết sau đây nhé. Lịch sử phát triển gốm sứ Việt Nam Để có được sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay, gốm sứ Việt Nam đã trải qua hàng trăm năm xây dựng, giữ gìn, bảo tồn và phát triển. Tuy có nhiều biến cố, thăng trầm trong lịch sử nhưng tinh hoa gốm sứ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ mình, luôn có sự đổi mới và để lại một kho tàng các tác phẩm gốm sứ đặc sắc. Vào khoảng 6000 – 7000 năm trở về trước, gốm sứ đã bắt đầu manh nha hình thành trên đất nước ta. Gốm sứ đã xuất hiện ở nhiều vùng trên đất nước, trải qua bao nhiêu thăng trầm gốm sứ Việt Nam đã có lúc phát triển mạnh, nhưng cũng có lúc gặp khó khăn lớn. Có nhiều làng nghề vẫn còn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay nhưng ngược lại cũng có những làng nghề dần mai một và biến mất đi khỏi bản đồ gốm sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ Gốm sứ Việt Nam thời kỳ tiền sử Vào thời kỳ tiền sử, gốm sứ Việt Nam vẫn còn rất thô sơ, các sản phẩm gốm được nhào nặn bằng tay, nguyên liệu chủ yếu là đất pha cát hoặc pha tạp chất. Hoa văn trang trí cực đơn giản, được vẽ bằng các vật sắc nhọn với các vạch chéo, răng cưa… được vẽ khi sản phẩm vẫn còn ướt. Gốm sứ Việt Nam thời kỳ đồ sắt Gốm sứ Việt Nam vào thời kỳ đồ sắt cũng còn rất thô sơ và chưa có gì đặc sắc so với thời kỳ tiền sử. Đồ gốm sứ chủ yếu vẫn là các sản phẩm nông nghiệp và các vật dụng sinh hoạt trong trong gia đình. Gốm sứ Việt Nam thế kỷ 2 trước Công nguyên Thời kỳ này, đất nước ta bị Trung Quốc đô hộ nên nền sản xuất gốm sứ chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Hoa. Các sản phẩm gốm sứ thời kỳ này đã phong phú hơn, các kiểu dáng hoa văn trang trí theo phong cách Hán và được cải biên hơn trước. Gốm thời Lý – Trần Đây là thời kỳ gốm sứ Việt Nam có sự phát triển rực rỡ, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử gốm sứ Việt Nam. Quy mô sản xuất gốm sứ được mở rộng, sản phẩm trở nên phong phú về chủng loại, mẫu mã với các chất liệu men trắng ngà nổi bật cùng với gốm men nâu, men xanh,… Gốm sứ thời Lý – Trần được đánh giá là rất tinh tế, lớp men dày mịn phủ kín, bám chắc, màu gốm xanh ngọc còn được điểm thêm các gam màu đặc biệt như vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm,… Họa tiết trang trí trên gốm sứ thời kỳ này chủ yếu là hoa lá, chim thú, người,… Các hoa văn trang trí thường đơn giản và gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam. Gốm sứ thời kỳ Lý- Trần đánh dấu bước ngoặt mới trong ngành sản xuất gốm sứ với việc sử dụng lò nung con cóc, lò nằm,… thể hiện bước phát triển rực rỡ của gốm sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam từ sau thế kỷ 14 Từ sau thế kỷ 14 gốm sứ Việt Nam kế thừa và tiếp tục phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của một số làng nghề nổi tiếng như gốm sứ như Bát Tràng, Thổ Hà, Chu Đậu, Phù Lãng… Sản phẩm gốm sứ Việt Nam sau thế kỷ 13 rất đa dạng về mẫu mã, chủng loại,… Đặc biệt gốm sứ thời kỳ này còn được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc… Đặc biệt thời kỳ này đã có sự xuất hiện của sản phẩm gốm hoa lam, gốm chạm đắp nổi đầy tinh tế. Kỹ thuật nung gốm thời kỳ này đã phát triển hơn với việc sử dụng các lò nung cỡ lớn điều chỉnh được nhiệt lượng. Gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay Gốm sứ Việt Nam đến nay đã thừa kế và phát triển hơn rất nhiều so với thời kỳ trước các lò nung thủ công đã được thay thế bằng các lò lung gas hiện đại và an toàn, bảo vệ môi trường, sản phẩm làm ra với mẫu mã đẹp mắt, hoa văn họa tiết phong phú, nổi bật. Có thể nói lịch sử hình thành và phát triền nền văn hóa gốm sứ Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Tuy nhiên với tâm huyết và bàn tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân cùng lòng nhiệt huyết với các sản phẩm gốm sứ đã giúp cho những sản phẩm gốm sứ Việt Nam không chỉ phát triển trong nước mà còn nhanh chóng vươn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và được đông đảo bạn bè quốc tế, người tiêu dùng ưa chuộng. Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 02/03/2015, 0137 . như Đồ sứ men trắng vẽ lam, đồ sứ ngự dụng và quan dụng thời Lê - Nguyễn, đồ sứ ký kiểu của Triều Nguyễn, gốm men xanh trắng của triều Nguyễn, gốm lam Huế, đồ sứ đặc chế, đồ Lam Huế, đồ sứ đặt. mẫu qua đặt lò gốm tại Giang Tây - Trung Quốc. Thuật ngữ đồ sứ ký kiểu ĐSKK trong sách này được dùng để chỉ những đồ sứ do người Việt Nam, gồm cả vua, quan và thường dân, đặt làm tại các lò gốm. từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời - Xem thêm -Xem thêm Đồ gốm sứ việt nam qua các thời đại, Đồ gốm sứ việt nam qua các thời đại, Có thể nói rằng, trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Sự ra đời của đồ gốm sứ, mà trước hết là đồ gốm, đánh dấu một cột mốc vô cùng quan trọng. Ngay từ 8000 năm trước công nguyên, Các đồ gốm đầu tiên đã được tìm thấy ở Găng – đa – rê Iran, Mu – rây – bát Sire. Và xuất hiện ở Bắc Phi khoảng thiên niên kỷ thứ 10 trước công nguyên, ở Nam Mỹ khoảng thiên niên kỷ thứ 7 trước công nguyên. Đồ sứ ra đời muộn hơn đồ gốm khá lâu, đến năm 620 sau công nguyên, Trung Hoa mới là nước đầu tiên sản xuất Sứ trên thế giới. Nghề làm gốm là một trong những nghề có truyền thống lâu đời nhất tại Việt nam. Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10. 000 năm. Trải qua năm tháng, Gốm sứ không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người chén, nồi, ấm, đĩa… mà còn hơn thế, gốm sứ đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước Góm sứ Việt Nam qua các thời đại Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim , mộc, thuỷ , hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Xem thêm Gốm sứ cổ truyền Gốm làng xuất ngoại Gốm thời Lý 1010-1224 Đồ gốm tráng men thời Lý có gốm men trắng ngà,men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm,mịn,bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất trong suốt, sâu thẳm,mịn,lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Gốm thời Lý Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống Trung Quốc chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống. Gốm thời Trần 1225-1339 Gốm thời Trần tìm được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lý và gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng tôi bước đầu đã có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần. Gốm thời Trần Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí cũng vậy, mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dường như đây là loại hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Tại hố đào ở khu D cũng đã tìm thấy mảnh khuôn in gốm thời kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải. Gốm thời Lê sơ 1428-1526 Gốm thời Lê Sơ * Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước… được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. * Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát Thanh Hóa di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường phường đất trắng, sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường nơi làm bát. Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… Men trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy có thể tạm kết luận rằng việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long Gốm thời Hậu Lê 1593-1789 Gốm thời Hậu Lê Nhìn chung, gốm thời Lê – Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. Tình hình này có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ. Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An Quảng Nam, Pandanan Philippin… cho thấy những đồ gốm này đã từng là mặt hàng chủ đạo trong việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Gốm thời nhà Mạc. Gốm thời nhà Mạc Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương ức thương’ như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mỹ quốc công phu nhân… Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Đồ sứ hoa lam thời các Chúa Nguyễn Đồ sứ hoa lam thời các Chúa Nguyễn Giữa thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XVIII các chúa Nguyễn truyền nhau cai trị vùng đất Nam Hà. Dựa theo tinh thần “Cư trần lạc đạo” thời Lý-Trần, chúa Nguyễn đưa ra chủ trương “Cư Nho mộ Thích”, để ổn định tâm lý xã hội đẩy mạnh việc phát triển đất nước vào phương Nam. Đạo Phật được triều đình lẫn quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ. Trong vương phủ chúa kiến tạo chùa thờ Phật gọi là “Giác Vương Nội viện”, thường thỉnh các vị cao tăng vào thuyết pháp để tu tập. Các chùa sắc tứ được xây dựng chư chùa Thiên Mụ, Thiền Lâm ở Huế, Tam Thai Quảng Nam, Thập Tháp Di Đà Quy Nhơn, Kim Cương, Từ Ân Gia Định… Nam Hà thời này không có lò gốm chuyên môn có thể chế tác từ khí tốt đẹp như các lò gốm truyền thống ở Bắc Hà Chu Đậu, Bát Tràng, Thổ Hà. Do đó, để phục vụ cho nhu cầu thờ cúng, trang trí cung điện, chùa chiền chúa Nguyễn đã gửi kiểu mẫu qua đặt lò gốm tại Giang Tây – Trung Quốc. Thuật ngữ đồ sứ ký kiểu ĐSKK trong sách này được dùng để chỉ những đồ sứ do người Việt Nam, gồm cả vua, quan và thường dân, đặt làm tại các lò gốm sứ Trung Hoa trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, với những yêu cầu riêng về kiểu dáng, màu sắc, hoa văn trang trí, thơ văn minh hoạ và hiệu đề. Những đồ sứ này, trước nay, được biết đến bởi hai tên gọi phổ biến “bleus de Huê” Tiếng Pháp và đồ sứ men lam Huế Tiếng Việt. Ngoài ra, từ năm 1994 tới nay, các nhà nghiên cúu trong và ngoài nước đã có những cuộc tranh luận trên báo chí về tên gọi cho nhóm đồ sứ này và đưa ra nhiều thuật ngữ khác nhau như Đồ sứ men trắng vẽ lam, đồ sứ ngự dụng và quan dụng thời Lê – Nguyễn, đồ sứ ký kiểu của Triều Nguyễn, gốm men xanh trắng của triều Nguyễn, gốm lam Huế, đồ sứ đặc chế, đồ Lam Huế, đồ sứ đặt hàng, gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa…. Festival Gốm sứ Việt Nam – Bình Dương 2010 Festival diễn ra từ ngày tại thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nhằm tôn vinh gốm sứ, một trong những nghề truyền thống từ lâu đời của Việt Nam. Nhiều hoạt động sẽ diễn ra trong suốt thời gian Festival như lễ khai mạc với chủ đề “Thăng Long – Gốm Việt”. gomsudanlan hy vọng rằng thông tin bài viết trên sẽ hữu ích với bạn. Tiêu điểm Hình ảnh tại buổi khai mạc "Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ sưu tập An Biên". Ảnh Dân trí TPO - Trưng bày "Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt- Nhìn từ bộ sưu tập An Biên" sẽ diễn ra từ ngày 19/11 đến tháng 4/2022 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia số 1 Tràng Tiền, Hà Nội. Sự kiện do Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Hội Di sản Văn hoá Việt Nam và Sưu tập An Biên của nhà sưu tập Trần Đình Thăng Hải Phòng tổ chức nhằm mang đến cho công chúng bức tranh toàn cảnh về gốm Việt Nam ở 4 giai đoạn Gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu công nguyên; thế kỷ 11-14; từ thế kỷ 15 – 17 và gốm Bát Tràng thế kỷ 18 – 19. Trưng bày chuyên đề “Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ bộ sưu tập An Biên” nhằm tôn vinh gốm sứ nước nhà nhân Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam. Những đồ gốm sứ được trưng bày đều là những hiện vật tiêu biểu, đặc sắc, đại diện cho các thời đại, thời kỳ. Thông qua các hiện vật, Bảo tàng Lịch sử quốc gia giới thiệu tiến trình lịch sử gốm sứ Việt Nam đã có từ rất lâu đời với nhiều bước phát triển, gắn liền với các giai đoạn lịch sử, văn hóa nước ta. Trưng bày giới thiệu đến công chúng gần 80 hiện vật, trong đó có 58 hiện vật thuộc Bộ sưu tập An Biên và 22 hiện vật của Bảo tàng. Ban Tổ chức đã chia 4 chủ đề để giới thiệu đến công chúng đầy đủ các dòng men cũng như kỹ thuật, công nghệ sản xuất gốm sứ Việt Nam chứ không tập trung giới thiệu những hiện vật đơn thuần theo cách nhìn cổ vật với giá trị đắt tiền, to lớn, gây kinh ngạc... Trong bộ sưu tập có 9 hiện vật gốm thời Lý là men trắng, kích thước không lớn, cao 24-25 cm, như ấm men trắng cánh độc sắc khắc cánh sen có thể nói là cực kỳ đặc biệt, hiếm có. Thời Lý chuộng gốm men trắng, ưa chuộng sự giản dị, thanh cao. Đây là bộ sưu tập đặc sắc mà Hội Di sản văn hóa Việt Nam và các chuyên gia đã giúp sưu tập, thành lập bộ hồ sơ, đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia. Trưng bày "Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt- Nhìn từ bộ sưu tập An Biên" sẽ diễn ra từ ngày 19/11/2021 đến tháng 4/2022 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia số 1 Tràng Tiền, Hà Nội. MỚI - NÓNG Nghệ nhân ưu tú K’Tiếu Tiếng chiêng ngân vang núi rừng TPO - Với niềm đam mê lớn và năng khiếu cảm thụ âm thanh, nghệ nhân K’Tiếu là một trong những người đánh chiêng giỏi nhất vùng. Ông đã trao truyền ngọn lửa đam mê và tay nghề cho hàng trăm người để tiếng chiêng ngân vang khắp buôn làng. Bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho cán bộ quân đội làm công tác dân vận TPO - Lớp bồi dưỡng nhằm trang bị tri thức, những kiến thức về dân tộc và công tác dân tộc cho cán bộ làm công tác dân vận trong Quân đội khu vực miền Trung - Tây Nguyên năm 2023, từ đó, làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện tốt công tác dân tộc trong tình hình mới. Phía sau chuyện một ngôn ngữ cổ sắp biến mất TP - Hiện chỉ còn hai người nói được, tiếng Nuu không chỉ là một trong những ví dụ tiêu biểu về sự đa dạng văn hóa của nhân loại, mà còn là đường liên kết giữa chúng ta và loài người sơ khai. Có thể bạn quan tâm Thanh Hoá người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số TPO - UBND tỉnh Thanh Hóa vừa ban hành quyết định về việc phê duyệt danh sách người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh, giai đoạn 2023 – 2027. Hỗ trợ công tác giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tại Lạng Sơn TPO - Ngày 9/12, đoàn công tác của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, do Bà Leo Thị Lịch, Uỷ viên Thường trực Hội đồng Dân tộc làm Trưởng đoàn khảo sát tình hình triển khai, thực hiện một số chính sách giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc thiểu số TPO - Tại tỉnh Hòa Bình, Bộ GD&ĐT vừa tổ chức Hội thảo tập huấn dạy học tăng cường Tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số theo định hướng Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Bộ trưởng Hầu A Lềnh 'Đồng bào dân tộc thiểu số còn rất khó khăn, cần chính sách riêng' TPO - "Hiện nay chúng ta đang phân định vùng theo trình độ phát triển, chủ yếu dựa vào tỉ lệ hộ nghèo, tỉ lệ hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới… nhưng thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn rất khó khăn, cần phải có chính sách riêng", Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết. 12 tác phẩm xuất sắc trong cuộc thi về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc TPO - Ban tổ chức cuộc thi "Tìm hiểu về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam" đã nhận được gần tác phẩm dự thi. Với 123 tác phẩm vào vòng chung khảo, Ban Tổ chức đã trao giải cho 12 tác phẩm xuất sắc. Tuyên dương 140 học sinh, sinh viên, thanh niên dân tộc thiểu số tiêu biểu năm 2022 TPO - Lễ tuyên dương học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS tiêu biểu năm 2022 sẽ diễn ra vào hai ngày 9 -10/12/2022 và truyền hình trực tiếp lúc 20h trên VTV2 tối ngày 10/12/2022. Năm nay, trong danh sách 140 người được tuyên dương có không ít gương mặt nổi bật, sở hữu thành tích rất cao. Chiêm ngưỡng cây mộc hương 'khủng', khách trả gần 2 tỷ đồng chủ vườn vẫn chưa bán TPO - Mộc hương, cây cảnh có mùi hương thơm đặc biệt, trước đây chỉ dành để tiến Vua giờ được khách trả gần 2 tỷ đồng nhưng chủ vườn ở Nghệ An vẫn chưa muốn bán. Chủ tịch nước chúc mừng Giáng sinh Tổng Giáo phận Hà Nội Trong không khí vui mừng chuẩn bị đón Lễ Thiên Chúa Giáng sinh 2022 và năm mới 2023, sáng 17/12, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm, tặng quà, chúc mừng Tổng Giáo phận Hà Nội và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam. Cùng đi có lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương và TP. Hà Nội. Tuyên truyền, vận động nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới TPO - Trong 2 ngày 6 - 7/12, Vụ Công tác dân tộc địa phương, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh khai mạc Hội nghị tập huấn về tuyên truyền, truyền thông, vận động nhân dân vùng đồng bào DTTS và miền núi, biên giới. Lịch sử đồ gốm Việt Nam đã bắt đầu từ những món đồ bằng đất sét trộn bột vỏ sò không tráng men, dùng khuôn bằng giỏ đan, màu nâu đậm hay nâu nhạt …qua những vật tích tìm được ở Hoà Bình, ở Bắc Sơn, ở Quảng Yên, ở Thanh Hoá. Trong phạm vi đồ gốm – nét văn minh sơ khởi nhất của con người, bởi vì không có đồ gốm để nấu nướng, cất giữ, ăn uống thì nền văn minh không hình thành – ông cha ta tiếp tục phát huy, học hỏi và ứng dụng kinh nghiệm vào việc chế tạo đồ gốm, tạo nên các nền văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá ông Sơn . Dù di tích còn rất ít, nhưng đồ gốm Việt Nam trong thời này đã cho thấy sắc thái của một nền văn hóa cá biệt. Trong những thế kỷ sau đó, đồ gốm Việt Nam đạt được mức phát triển rất cao, đã xuất cảng sang Ả Rập, Nam Dương… Thạp, hũ, liễn trang trí hoa và chim. Gốm hoa nâu, triều Trần thế kỷ 13,14. Sang thế kỷ thứ 10, đồ gốm mang một sắc thái khác với nước men trong, dày, khá đều, với hoa văn chim hạc, cọp, voi, hoa sen, hoa cúc… đã xuất hiện nhiều. Người thợ Việt Nam đã biết cách làm các đường rạn thưa hay dày theo ý muốn. Rồi từ đời Lý đầu thế kỷ 11 đồ gốm Việt Nam phát triển một cách huy hoàng. Nhiều loại men các loại Lý Nâu, Lý en, Lý Trắng, Lý Lục, men ngọc, nhiều hoa văn, nhiều thể loại tràn lan khắp nơi, từ chốn triều đình, chùa, miếu đến thôn dã trong suốt từ thế kỷ 11 đến hết thế kỷ 16 đời Hậu Lê. Hình dáng gốm Việt Nam gồm có dĩa, đĩa, tô, chén, lọ, chai và bình. Cả những kiểu đặc biệt tạo ra bởi nghệ nhân đời Minh như hũ và chén có bệ của thời kỳ 1403-1424 cũng có tương đương trong các loại đồ gốm Việt Nam. Đồ gốm đất Việt Nam được cấu tạo dày và chắc hơn đồ gốm đất Trung Hoa. Thân hình cấu tạo bên ngoài màu nâu và ít có bị lẫn chất bụi hoặc sạn. Dưới chân đồ gốm đất hoặc là để nguyên hoặc được tráng một lớp trơn không màu hoặc một lớp tráng oxide sắt màu nâu. Có đủ loại các lớp trán trên đồ gốm Việt Nam. Loại đồ gốm tráng một màu là những loại thông dụng được xuất khẩu trong thời kỳ đầu. Trắng, xanh cây, đen và nâu là những loại thông dụng và được biết nhiều. Sự tiến triển của kỷ thuật đồ gốm trong giai đoạn đầu là sự trình bày bằng lớp oxide sắt đen và nâu dưới lớp tráng. Sắc thái trình bày rất thanh thoát và giản dị so với lối trình bày trên đồ gốm Trung Hoa. Sự chuyển tiếp từ lối trình bày bằng oxide sắt đến cách dùng cobalt xanh trời là một sự cải tiến quan trọng trong nghệ thuật đồ gốm Việt Nam và chứng kiến một mức độ sản xuất về xuất khẩu chưa từng có trong lịch sử đồ gốm Việt. Thống trang trí hoa sen, cúc dây. Gốm hoa nâu, triều Trần, thế kỷ 13 – 14 Những kiểu trình bày Việt Nam có đặc tính thanh thoát, sáng tạo độc lập khác hẳn với sự xếp đặt phong cảnh, sinh thú của lối trình bày Trung Hoa. Chim, cá, ngựa và nai là những sinh thú thường được trình bày cũng như các con vật huyền thoại như lân và phượng. Rồng tuy vậy lại rất hiếm trong các lối trình bày. Con cá trong đồ gốm Việt Nam, không giống cá kiểng đỏ của đồ gốm Trung Hoa, mà là con cá bông của sông ngòi Việt Nam. Đến giữa thế kỷ 15, đồ gốm xanh trời và trắng chiếm vị trí hàng đầu trong những hàng xuất khẩu. Cũng trong khoảng thời gian nay, một loại đồ gốm mới xuất hiện với cách dùng men trắng, chủ yếu màu đỏ và xanh trời, và thường phối hợp với lớp trình bày xanh trời ở lớp dưới. Nói đến tuyệt đỉnh của Gốm cổ Việt Nam ta không thể không nhắc đến tên “ Gốm Chu Đậu”. Đồ gốm Chu Đậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Đồ gốm Chu Đậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường và nhiều nhất là dưới các tầu buôn chìm ngoài khơi Hội An, Đà Nẵng… Đồ gốm Chu Đậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt Nam. Đồ gốm Chu Đậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men nồi đất, chum, vạị.. cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bâygiờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên chuyên làm nồi đất không men. Đồ gốm Chu Đậu cũng có nhiều thứ như men ngọc celadon, men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn mầu xanh men trắng chàm và men trắng trong với hoa văn ba mầu vàng, đỏ nâu và xanh lục men tam thái Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật Giáo, hoa văn Chu Đậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Đậu được vẽ bằng men mầu, men ngọc thời Chu Đậu cầm thấy nặng tay, chất đất thô hơn và tiếng gõ không thanh như men ngọc của người Tầụ Bình ấm thời Lý thường có vòi hình đầu rồng, hình vòi voi, hình đầu chim… Ngày nay, gốm trong tâm thức người Việt là Gốm của làng Bát Tràng, làng gốm Phù Lãng…tuy gốm hiện đại cũng có một số nét thay đổi nhưng về cơ bản vẫn giữ được truyền thống và linh hồn của gốm xưa. Có thể coi Gốm là dấu ấn của một nền văn minh lúa nước, của một nền văn hóa thuần Việt. Tác giả Thùy Dung Tổng hợp Continue Reading

gốm sứ việt nam qua các thời kỳ